Sắp xếp các hệ thống pháp luật

     Mặc dù vậy, việc sắp xếp các hệ thống pháp luật vẫn có thể thực hiện được nhờ tính ổn định của các hệ thống pháp luật. Những thay đổi của mỗi hệ thống pháp luật chỉ là những thay đổi hời hợt ở bên ngoài, ẩn chứa đàng sau những thay đổi đó là sự ổn định của chính hệ thống pháp luật đó mà nó thay đổi rất chậm chạp ngay cả khi có sự thay đổi lớn về kinh tế, chính trị, xã hội.
>>> Luật sư giỏi tại Hà Nội

>>> Thủ tục mua bán đất ở

     Nhân tố ổn định của mỗi hệ thống pháp luật chính là các nguyên tác quy định việc xây dựng pháp luật, giải thích pháp luật và áp dụng pháp luật cũng như phưomg pháp chung trong việc đào tạo các luật gia. Nói cách khác, sự ổn định và bền vững của mỗi hệ thống pháp luật là bởi vì  có thuật ngữ được sử dụng để thể hiện các khái niệm, các quy phạm củanó được sắp xếp vào các nhóm, nó có những kĩ thuật đ thể hiện các quy phạm và để giải thích chúng, nó được gắn với quan điểm về trật tự xã hội của chỉnh nó mà quan điểm này quy định cách thức pháp luật được áp dụng và quyết định chức năng thực sự  của pháp luật trong xã hội đó. Sự bền vững này giúp cho các luật gia cho, dù được đào tạo ở bất kì  thời điểm nào trong quá trình phát triển của hệ thống pháp luật, họ vẫn có thể giải thích và áp dụng một cách đúng đắn các quy phạm pháp luật ngay cả khi các quy phạm pháp luật này đã được sửa đổi hoặc thay thế bằng các quy phạm pháp luật khác. Sự bền vững của hệ thống pháp luật quốc gia tạo ra khả năng cho việc sắp xếp các hệ thống pháp luật trên thế giới thành các nhóm khác nhau mà mỗi nhóm đó được xem là một dòng họ pháp luật.

Sắp xếp các hệ thống pháp luật

     Trong lí thuyết về sự phân nhóm các dòng họ pháp luật, nhiều câu hỏi được đặt ra cho đến nay vẫn chưa có dược câu trả lờithống nhất là: Có bao nhiêu dòng họ pháp luật trên thế giới? hoặc các hệ thống pháp luật trên thế giới dược chia thành mấy nhóm? Và làm thế nào để xếp một hệ thống pháp luật cụ thể nào đó thuộc dòng họ pháp luật nào…

     Tiêu chí phân nhóm là yếu tố quyết định đối với việc xác định số lượng các dòng họ pháp luật cũng như việc đưa một hệ thống pháp luật cụ thể vào một dòng họ nào đó. Các học giả khác nhau đã và đang cố gắng tìm kiếm các tiêu chí để phân chia các hệ thống pháp luật trên thế giới thành các nhóm khác nhau. Sự khác nhau không chỉ số lượng các tiêu chí được sử dụng để còn khác nhau ở chính bản thân các tiêu chí được sử dụng để phân nhóm.
Xem thêm : Thủ tục thành lập doanh nghiệp mới 

Mục đích của việc phân chia hệ thống pháp luật trên thế giới

      Phân chia các hệ thống pháp luật trên thế giới thành các nhóm khác nhau chủ yểu là nhằm mục đích sư phạm. Việc phân chia này tạo điều kiện thuận lợi cho việc giới thiệu tổng quát về các hệ thống pháp luật trên thế giới, giúp cho các nhà luật học có được một bức tranh toàn cảnh về các hệ thống pháp luật trên thế giới. Điều đó xuất phát từ thực tế là trên thế giới có có hơn hai trăm hệ thống pháp luật khác nhau, mỗi hệ thống đó có những điểm riêng biệt, vì vậy, chúng ta không thể và không có đù thời gian để có thể nghiên cứu được hết tất cả các hệ thống pháp luật đó.


hệ thống pháp luật trên thế giới

      Thay vì việc nghiên cứu từng hệ thống pháp luật, việc phân nhóm sẽ giúp cho chúng ta sắp xếp một cách có trật tự các hệ thống pháp luật trên thế giới, từ đó, tiến hành những nghiên cứu các vấn đề cốt lõi của các dòng họ pháp luật thông qua việc nghiên cứu những hệ thống pháp luật điển hình của dòng họ pháp luật. Hơn nữa, việc phân nhóm này cũng sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc nghiên cứu từng hệ thống pháp luật cụ thể mà chúng ta quan tâm. Với việc xác định những đặc điểm của các nhóm pháp luật, khi cần phải nghiên cứu hệ thống pháp luật cụ thể nào đó, chúng ta xác định nội dung cụ thể của hệ thống pháp luật này và có được những tri thức cơ bản về hệ thống pháp luật, hệ thống pháp luật này thuộc vào dòng họ nào?

      Phân chia các hệ thống pháp luật dành các dòng họ pháp luật khác nhau là nội dung được quy định trong các công trình giới thiệu chung về hệ thống pháp luật để giải thích cho công việc này là việc phân bố pháp luật trên thế giới được xem là nội dung. Xét ở cấp độ so sánh, việc phân nhóm các luật thành các nhóm, các dòng họ pháp luật khác ở  cấp độ vĩ mô. Bởi vì, khi được phân chia, các hệ thống pháp luật khác nhau được dòng họ pháp luật theo các thành tố và đặc điểm.

Luật so sánh hỗ trợ tối ưu cho các thẩm phán

     Ngay cả trong trường hợp phải áp dụng pháp luật của quốc gia để giải quyết những vụ việc không có yếu tố nước ngoài, luật so sánh vẫn có thể được sử dụng như là phương tiện để giải thích và áp dụng các quy định đó. Cụ thể là luật so sánh có thể đưọc sử lụng để hỗ trợ đối với các thẩm phán trong quá trình áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc cụ thể khi pháp luật quốc gia có những khoảng trống chưa được giải quyết hoặc những quy tịnh của pháp luật quốc gia chưa rõ ràng.
>>> Luật sư giỏi tại Hà Nội

>>> Thủ tục mua bán đất ở

     Bởi vì “sẽ rất hợp lí nếu các toà án lấp đầy khoảng trống của pháp luật trong nước bằng cách tìm kiếm sự trợ giúp của luật so sánh“. Kết quả nghiên cứu so sánh sẽ giúp cho các thẩm phán có những lập luận hợp lí đối với việc giải quyết các vụ việc được áp dụng pháp luật trong nước. Tất nhiên, trong những trường hợp như vậy, những lập luận xuất phát từ các nghiên cứu so sánh để giải thích và áp dụng các quy định của pháp luật quốc gia đối với các vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của pháp luật quốc gia thường không được nêu rõ trong bản án hoặc phán quyết của toà án.

các thẩm phán

     Trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, vai trò của các luật sư đổi với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng: “Chức năng của các luật sư liên quan đến hoạt động kinh doanh quốc tể không phải chỉ (i) làm giảm đến mức tối thiểu các rủi ro (ii) làm nhẹ đi những gánh nặng của việc tuân thù các quy định của pháp luật cho khách hàng của mình, mà còn (iii) tăng giá trị cho các giao dịch của họ”. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, các luật sư có thể giúp cho thân chủ của họ tránh được những gánh nặng từ môi trưởng pháp lí thông qua việc tư vấn cho các thân chủ của mình lựa chọn luật áp dụng trong các giao dịch của họ. Để làm được việc đó, việc so sánh pháp luật quốc gia của khách hàng của luật sư với pháp luật của các đối tác của họ có ý nghĩa quan trọng. Việc so sánh luật sẽ giúp cho luật sư có thể tư vấn cho khách hàng của mình lựa chọn luật của nước nào có thể mang lại lợi nhuận tối da và giảm sự rủi ro đến mức tối thiểu trong các giao dịch của họ. Trong rất nhiều trường hợp, khách hàng của các luật sư có thể đạt được mục tiêu tốt nhất bằng việc áp dụng luật quốc gia của các đối tác của họ hoặc pháp luật của nước thứ ba chứ không phải là pháp luật của nước mình. Tuy nhiên, điểm cần lưu ý trong việc lựa chọn pháp luật nước ngoài để tư vấn cho khách hàng của mình, các luật sư không chỉ tập trung vào các quy định trên văn bản bởi vì “thực tiễn pháp lí thường khác xa với các quy định viết trong các hệ thống pháp luật đang phát triển ”. Do đó, khi lựa chọn pháp luật nước ngoài để tư vấn cho thân chủ của mình, các luật sư cần phải nghiên cứu các những quy tăc không thành văn được thực tế các nước chấp nhận.
Xem thêm : Thủ tục thành lập doanh nghiệp mới 

Luật so sánh hỗ trợ việc thực hiện và áp dụng pháp luật nước ngoài

     Luật so sánh có thể được ứng dụng trong thực tiễn thực hiện và áp dụng pháp luật. Thực tiễn áp dụng pháp luật rất phong phú, đa dạng, nhất là trong bối cành toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia. Vì thế, việc sử dụng luật so sánh như là một phương tiện hỗ trợ cho quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật có thể sẽ mang lại kết quả bất ngờ. Trong điều kiện hiện nay, sử dụng luật so sánh trong hoạt động thực tiễn không phải chỉ hữu ích đối với các thẩm phán của các toà án hay các cơ quan tài phán mà nó còn hữu ích cả đối với các luật sư,những người thường xuyên phải đưa ra lời tư vấn cho các giao dịch của khách hàng hoặc lời bào chữa cho các khách hàng của mình trong quá trình tố tụng.
>>> Luật sư giỏi tại Hà Nội

>>> Thủ tục mua bán đất ở

áp dụng pháp luật nước ngoài

     Luật so sánh có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giải quyết các vụ việc có liên quan đến yếu tố nước ngoài và pháp luật nước ngoài. Các thẩm phán, khi phải giải quyết vụ việc cụ thể nào đó liên quan đến việc phải áp dụng pháp luật nước ngoài, các luật sư khi tranh tụng tại toà án đối với các vụ việc liên quan đến pháp luật nước ngoài đương nhiên cần phải hiểu được các quy định của pháp luật nước ngoài. Mặc dù, “bản thân việc tìm kiếm và áp dụng luật nước ngoài không liên quan đến so sánh luật nhưng việc áp dụng pháp luật nước ngoài đòi hỏi một cách gián tiếp những so sánh nhất định giữa luật nước ngoài và luật củanước mà toà án có thẩm quyền xét xử vụ việc (lex fori)”. Hơn nữa, khi các toà án phải áp dụng pháp luật nước ngoài, các toà án đều phải bảo đảm rằng các quy định đó không trải với các nguyên tắc pháp luật trong nước và không xâm phạm trật tự công cộng của nước áp dụng. Để bảo đảm được yêu cầu này, rõ ràng việc so sánh pháp luật nước ngoài và pháp luật trong nước là việc làm kông thể thiếu trong hoạt động của thẩm phán cũng như của người có thẩm quyền áp dụng pháp luật.

     Trong trường hợp phải áp dụng các quy định là kết quả của quá trình hài hoà hoá và nhất thể hoá pháp luật, việc đảm bảo ính thống nhất của các quy tắc đã dược nhất thể hoá hoặc hài ìoà hoá thì việc sử dụng luật so sánh để xác định nội dung và thách thức áp dụng các quy định này được xem như là yêu cầu quan trọng đối với các cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật của quốc gia. Trong những trường hợp như vậy, các thẩm phán cũng như những người có thẩm quyền áp dụng pháp luật có thể sử dụng cách thức giải thích các quy định đó của toà án các nước, đặc biệt là toà án của nước đã sản sinh ra quy định đã lược thừa nhận được áp dụng chung để giải quyết các vụ việc huộc thẩm quyền của mình.
Xem thêm : Thủ tục thành lập doanh nghiệp mới 

Luật so sánh hỗ trợ cho việc làm

     Để vượt qua những rào cản này, luật so sánh có vai trò quan trọng.

     Trước hét, luật so sánh hỗ trợ cho quá trình hài hoà hoá pháp luật và nhất thể hoá pháp luật để vượt qua những khó khăn về kĩ thuật pháp lí. Một trong những công việc quan trọng cần phải thực hiện trong quá trình hài hoà hoá pháp luật và nhất thể hoá pháp luật là phải xác định được những điểm chung của các hệ thống pháp luật làm cơ sở cho việc tạo ra hệ thống quy tắc mẫu hoặc hệ thống quy tắc được áp dụng chung.

>>> Luật sư giỏi tại Hà Nội

>>> Thủ tục mua bán đất ở

     Để làm được điều đó, không thể không tiến hành các nghiên cứu so sánh. Hơn nữa, các nghiên cứu so sánh để hỗ trợ cho quá trình hài hoà hoá pháp luật và nhất thể hoá pháp luật không đơn giản chỉ là sự tập hợp những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật mà phải đề xuất được giải pháp pháp lí tốt hơn và dễ dàng áp dụng hơn so với các giải pháp pháp lí đang được sử dụng ở tất cả các quốc gia tham gia vào quá trình hài hoà hoá pháp luật và nhất thể hoá pháp luật.

Luật so sánh hỗ trợ cho việc làm

     Mặt khác, luật so sánh cung cấp cho các luật gia những trì thức và kĩ năng quan trọng để tham gia vào quá trình đàm phán nhằm đi đến nhất thể hoá pháp luật hoặc hài hoà hoá pháp luật. Việc xây dựng các luật mẫu hoặc luật được áp dụng chung đòi hỏi quá trình đàm phán giữa đại diện các quốc gia để đạt được sự đồng thuận về các quy tắc pháp luật chung. Những tri thức về các hệ thống pháp luật và hơn thế là các kĩ năng phân tích và đánh giá các hệ thống pháp luật khác nhau có vai trò quan trọng trong quá trình đàm phán. Chúng là những phương tiện không thể thiếu được để đại diện các quốc gia có thể nhanh chóng đạt được sự đồng thuận trong quá trình đàm phán. Thiếu tri thức về các hệ thống pháp luật khác nhau, việc đàm phán sẽ trở nên khó khăn và có thể thất bại. Vì thế, “luật so sánh được xem như là nguồn cung cấp năng lực của những người đại diện để trao đổi với nhau”. Không chỉ hỗ trợ để vượt qua những khó khăn về kĩ thuật pháp lí trong quá trình hài hoà hoá và nhất thể hoá pháp luật, luật so sánh còn hỗ trợ đối với cả các quốc gia vượt qua những rào cản tâm lí khi tiếp nhận các quy định áp dụng chung và từ bỏ các quy định pháp luật của quốc gia. Để tránh được quan niệm cho rằng các quốc gia sẽ phải từ bỏ các quy tắc của mình, đòi hỏi luật so sánh phải thực hiện các nghiên cứu so sánh vượt lên trên những so sánh về các quy phạm pháp luật thực định nhăm cung cấp cơ sở lí luận để phát triển các quy tắc có thể được áp dụng chung ở nhiều quốc gia khác nhau và chỉ ra rằng quy phạm nào có thể được chấp nhận chung. Nói cách khác, luật so sánh không phải đơn giàn là chỉ xây dựng giải pháp pháp lí hoặc các quy phạm pháp luật có thể được áp dụng chung mà phải xây dựng được hệ thống lí thuyết về các lĩnh vực pháp luật có thể xây dựng các quy phạm được áp dụng chung. Lí thuyết này không tập trung vào hệ thống pháp luật cụ thể nào cũng như không đề cập bất kì một quốc gia cụ thể nào. Lí thuyết này được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu so sánh các quy tác của các hệ thống pháp luật khác nhau nhưng được phát triển gắn với tính đa dạng về kinh tế, chính trị, xã hội… của các quốc gia. Tuy nhiên, các công trình này cần phải giới hạn bản thân chúng về bản chất củapháp luật, các công trình này cũng phải mô tả cách thức mà pháp luật được tạo ra và áp dụng và nghiên cứu quy trình lập pháp của các nước khác nhau, phương pháp áp dụng pháp luật, kiểu phán quyết và đào tạo và các hoạt động nghề nghiệp của những ngườihành nghề luật ở các nước đó ”. Những nghiên cứu này không dừng lại ở mục đích thuần tuý là tìm hiểu các quy phạm pháp luật với quan điểm hoàn thiện pháp luật của quốc gia mà nó nhằm mục đích làm cho mọi người nhận thức được nền tảng của các quy phạm pháp luật được áp dụng chung phù hợp với các quốc gia có các điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội khác nhau. Sự phát triển của lí thuyết này sẽ làm cho các quốc gia cũng như các luật sư của các nước đó dễ dàng chấp nhận các quy tắc được áp dụng chung trong những lĩnh vực pháp luật được hài hoà hoá và nhất thể hoá.
Đọc thêm tại: Dịch vụ sang tên sổ đỏ



Hài hòa pháp luật và nhất thể hoá pháp luật

    Hài hoà hoá pháp luật và nhất thể hoá pháp luật là khái niệm khác nhau được sử dụng khá phổ biến trong khoa pháp lí. Hài hoà hoá pháp luật và nhất thể hoá pháp luật là những hình thức khác nhau để loại bỏ sự khác biệt trong các lĩnh vực pháp luật cụ thể của các hệ thống pháp luật khác nhau.

>>> Luật sư giỏi tại Hà Nội

>>> Thủ tục mua bán đất ở

     Trong hài hoà hoá pháp luật là quá trình nhằm làm giảm đi những khác biệt trong các lĩnh vực pháp luật cụ thể giữa các hệ thị pháp luật bằng cách xây dựng các luật mẫu và thực hiện các biện pháp để khuyến khích các quốc gia tiếp nhận và áp dụng. Nhất thể hoá pháp luật là thuật ngữ được sử dụng để nói đến quá trình theo đó các quy phạm pháp luật mâu thuẫn của các hệ thống pháp luật khác nhau được thay thể bởi các quy phạm pháp luật chung nhất. Nói cách khác, nếu hài hoà hoá pháp luật là cố gắng làm giảm đi những khác biệt trong cùng những lĩnh vực pháp luật thì nhất thể hoá pháp luật lại đi xa hơn là tạo ra các quy phạm pháp luật để áp dụng chung trong những lĩnh vực nhất định của các nước chấp nhận việc nhất thể hoá. Hài hoà hoá pháp luật và nhất thể hoá pháp luật có thể dược thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau.

Hài hòa pháp luật

     Các quốc gia có thể lựa chọn các quy tắc được xem là tối ưu từ các hệ thống pháp luật khác nhau để áp dụng chung hoặc xây dựng những quy tắc mới để thay thế cho tất cả các quy tắc đang được áp dụng ở các nước. Hài hoà hoá pháp luật và nhất thể hoá pháp luật là quá trình khó khăn và phức tạp. Quá trình này dù được diễn ra ở cấp độ và phạm vi nào cũng phải đối mặt với những khó khăn mà việc vượt qua những khó khăn đó không dễ dàng. Một trong những khó khăn quan trọng mà quá trình hài hoà hoá pháp luật và nhất thể hoá pháp luật cần phải vượt qua là vấn đề kỉ thuật pháp lí. Đó là sự khác biệt về quan niệm và thuật ngữ giữa các hệ thống pháp luật khác nhau. Sự khác biệt về quan niệm và thuật ngữ làm cho “nhất thể hoá pháp luật không thể đạt được một cách đơn giản bằng cách làm xuất hiện pháp luật lí tưởng về bất kì vấn đề gì và hi vọng nó được chấp nhận”. Một vấn đề khác cũng ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình hài hoà hoá và nhất thể hoá pháp luật vấn đề tâm lí liên quan đến lòng tự hào dân tộc. Việc chấp nhận các quy tắc được hài hoà hoá và nhất thể hoá có nghĩa là các quốc gia sẽ phải từ bỏ các quy phạm pháp luật của mình. “Lòng tự hào dân tộc làm cho chính bản thân nó cố kết lại trong lĩnh vực pháp luật cũng như trong các lĩnh vực khác. Việc loại bỏ các quy tắc pháp luật của quốc gia dường như ngụ ý rằng có điều gì đó không ổn với các quy phạm sẽ bị thay thể và tính tự ái dân tộc theo đó bị tổn thương ”.
Đọc thêm tại: Dịch vụ sang tên sổ đỏ

Luật so sánh mang lại hiệu quả trong việc cải cách luật của quốc gia

     Ở phương thức thứ nhất, nghiên cứu luật so sánh, đặc biệt là nghiên cứu các giải pháp về vấn đề nào đó của pháp luật nước ngoài có khả năng tạo ra nguồn cung cấp các giải pháp pháp luật để các nhà làm luật phân tích, đánh giá nhằm xây dựng các giải pháp cho hệ thống pháp luật của nước mình.

>>> Luật sư giỏi tại Hà Nội

>>> Thủ tục mua bán đất ở

     Ở phương thức này, trên cơ sở phân tích đánh giá các giải pháp, các khái niệm của pháp luật nước ngoài, các nhà làm luật sẽ xây dựng giải pháp riêng của pháp luật để giải quyết vấn đề phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của quốc gia về kinh tế, chính trị, truyền thống, văn hoá… Điều này xuất phát từ cơ sở cho rằng, mỗi quốc gia có những điều kiện kinh tế – xã hội hoàn toàn khác nhau, vì vậy các nhà làm luật phải xây dựng các văn bản pháp luật phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của nước mình. Do đó, trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài, nhà làm luật xây dựng các quy định phù hợp với hệ thống pháp luật của nước mình. Nói cách khác, trên cơ sở các giải pháp pháp luật của các quốc gia, nhà làm luật “có thể tạo ra giải pháp mới, tối ưu hơn tất cả các giải pháp khác, khác với các giải pháp của các quốc gia khác ” và phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của quốc gia. Như vậy, các giải pháp, các khái niệm hoặc các quy phạm pháp luật của nước ngoài sẽ được thể vận dụng để xây dựng các giải pháp trong hệ thống pháp luật của nước mình.

Luật so sánh mang lại hiệu quả

     Ở phương thức khác, để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của quốc gia, các nhà làm luật có thể tiến hành việc “cấy ghép” tức là đưa các quy phạm pháp luật, các văn bản từ hệ thống pháp luật này vào hệ thống pháp luật khác trong quá trình xây dựng pháp luật hoặc cải cách pháp luật. Nói cách khác, trong quá trình xây dựng pháp luật hoặc cải cách hệ thống pháp luật, nhà làm luật có thể “nhập khẩu” quy phạm pháp luật hoặc văn bản pháp luật cụ thể của một hệ thống pháp luật nào đỏ vào hệ thống pháp luật củanước mình. Để đảm bảo cho các quy phạm pháp luật hoặc các đạo luật của nước ngoài khi đưa vào hệ thống pháp luật của quốc gia có thể vận hành một cách hiệu quả, các nghiên cứu so sánh sẽ giúp cho các nhà làm ít đánh giá cũng như dự báo được khả năng tương thích của quy phạm pháp luật nước ngoài khi đưa vào áp dụng trong 1 thống pháp luật của quốc gia.

     Như vậy, luật so sánh mở rộng nguồn các giải pháp pháp luật về một vấn đề cụ thể nào đó mà pháp luật của các nước đã và đang phải đối mặt. Nhờ đó, thay vì việc tự mình tìm kiếm, xây dựng và thử nghiệm các giải pháp cho pháp luật của nước mình với những rủi ro khó lường trước, dựa vào luật so sánh và làm luật có thể xây dựng và cải tổ hệ thống pháp luật của mình trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm hoặc cấy ghép pháp luật nước ngoài trong quá trình xây dựng pháp luật. Vì vậy, so sánh các hệ thống pháp luật làm tăng khả năng thành công của việc cải cách hệ thống pháp luật của quốc gia.
Đọc thêm tại: Dịch vụ sang tên sổ đỏ

Luật so sánh có thể hỗ trợ cải cách pháp luật của quốc gia

     Một trong những ứng dụng rất hữu ích của luật so sánh là hỗ trợ việc cải cách pháp luật của quốc gia. Những tri thức có được từ kết quả của việc nghiên cứu so sánh sẽ hỗ trợ rất lớn cho các nhà làm luật trong việc xây dựng hoặc cải tổ hệ thống pháp luật của quốc gia. Trong rất nhiều lĩnh vực, các kết quả của sự sáng tạo có thể đuợc xác định, đánh giá thông qua những thử nghiệm thì trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, những thử nghiệm này thường rất hạn chế.

>>> Luật sư giỏi tại Hà Nội

>>> Thủ tục mua bán đất ở

     Vì thế, vai trò rất quan trọng của các nhà làm luật là phải dự báo được khả năng tác động của các đạo luật đối với đời sống xã hội. Những giả thiết không chính xác hoặc các dự báo sai lầm của nhà làm luật có thể sẽ dẫn đến việc xã hội phái gánh chịu những hậu quả và những rủi ro rât lớn mà không thể lường trước được. Nhà làm luật có thể dễ dàng dự báo một cách chính xác khả năng tác động của các đạo luật hoặc các giải pháp pháp lí cụ thể ở nước mình nếu tiến hành các nghiên cứu so sánh các giải pháp pháp lí đã được sử dụng ở nhiều quốc gia khác nhau.

cải cách pháp luật của quốc gia

 Vì vậy, vay mượn miễn phí các giải pháp pháp luật của các hệ thống pháp luật khác nhau sẽ hữu ích hơn rất nhiều so với việc phải trải qua những thử nghiệm tốn kém và nguy hiểm. Nói cách khác, các nhà làm luật không phải đặt các quyết định của họ vào những dự đoán không chẳc chắn mà “thay vì phải dự đoán và có nguy cơ phải chịu những giải pháp kém thích hợp, họ có thể khai thác, tham khảo các kinh nghiệm quý báu, phong phú từ các hệ thống pháp luật nước ngoài”. Thậm chí, việc nghiên cứu luật so sánh không phải chỉ giúp cho nhà làm luật lựa chọn được giải pháp nào hoặc mô hình pháp luật nào để tiếp nhận mà còn giúp họ “tránh được cả những thử nghiệm không thành công ở hệ thống pháp luật khác”.

     Các nghiên cứu so sánh cũng như việc nghiên cứu các hệ thống pháp luật nước ngoài sẽ cung cấp cho các nhà làm luật hệ thống khái niệm cũng như các giải pháp mà pháp luật nước ngoài sử dụng để giải quyết vấn đề nào đó. Nhà làm luật của quốc gia sẽ sử dụng các giải pháp này cũng như các khái niệm của hệ thống pháp luật nước ngoài như là những hình mẫu để xây dựng các quy phạm pháp luật hoặc các văn bản luật của – quốc gia phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của mình. Việc sử dụng các khái niệm và các giải pháp pháp lí của nước ngoài trong quá trình xây dựng pháp luật có thể được thực hiện theo hai phương thức. Một là, dựa vào kỉnh nghiệm của pháp luật nước ngoài mà cụ thể là hệ thống khái niệm và giải pháp của pháp luật nước ngoài để xây dựng các giải pháp cụ thể cho pháp luật của nước mình; hai là, tiếp nhận các khái niệm và giải pháp pháp luật của nước ngoài bằng cách “cấy ghép” pháp luật.

Đọc thêm tại: Dịch vụ sang tên sổ đỏ

Luật so sánh giúp nâng cao hiểu biết của luật gia, các nhà nghiên cứu

     Luật so sánh không phải chỉ cung cấp cho các luật gia và các nhà nghiên cứu những tri thức về các dòng họ pháp luật trên thếgiới và tri thức về hệ thống pháp luật nước ngoài mà còn giúp cho các luật gia và các nhà nghiên cứu có thêm được những tri thức về hệ thống pháp luật của nước mình. Nói cách khác, luật so sánh giúp cho ngườinghiên cứu hiểu hơn về hệ thống pháp luật của quốc gia mình.

>>> Luật sư giỏi tại Hà Nội

>>> Thủ tục mua bán đất ở

     Nghiên cứu hệ thống pháp luật khác không chỉ bổ sung những tri thức của ngườinghiên cứu mà nó còn nâng cao sự hiểu biết những tri thức có sẵn với một mức độ khác nhau. Nghiên cứu pháp luật nước ngoài nhằm mục đích so sánh giúp cho các nhà nghiên cứu luật so sánh tiếp cận hệ thống pháp luật của nước mình theo một cách thức hoàn toàn khác với những gì đã quá quen thuộc đối với họ. Khi tiến hành so sánh luật, đặc biệt là trườnghợp hệ thống pháp luật của quốc gia mình được lựa chọn để so sánh với hệ thống pháp luật nước ngoài, ngườinghiên cứu sẽ có được những hiểu biết mới về pháp luật của nước mình. Hơn nữa, kết quả của việc so sánh giúp cho “các luật gia nhìn nhận hệ thống pháp luật của nước mình với một quan điểm hoàn toàn mới và với một khoảng cách cần thiết ”.Trên cơ sở so sánh, các luật gia và các nhà nghiên cứu có thể đánh giá, nhìn nhận hệ thống pháp luật của nước mình một cách khách quan hơn, thậm chí, nhiều câu hỏi về hệ thống pháp luật của nước mình chưa được giải đáp trong các khoa học pháp lí khác lại được giải đáp một cách khá đơn giản thậm chí với câu trả lờihoàn toàn mới trong luật so sánh. Vì vậy, chúng ta sẽ không thể hiểu đầy đủ về hệ thống pháp luật của nước mình nếu chúng ta không nghiên cứu hệ thống pháp luật khác.

nâng cao hiểu biết của luật gia

     Ngoài những tri thức và những hiểu biết về pháp luật mà các luật gia có được từ việc nghiên cứu luật so sánh, luật so sánh còn cung cấp những tri thức của nhiều lĩnh vực khoa học khác. Trong quá trình tiến hành các so sánh pháp luật, để hiểu được một cách đúng đắn các quy định củapháp luật nước ngoài, các nhà nghiên cứu phải tìm hiểu những nhân tố có ảnh hưởng đối với pháp luật như lịch sử, địa lí, ngôn ngữ, những điều kiện về kinh tế, chính trị và xã hội của nước mà hệ thống pháp luật đã được lựa chọn để so sánh. Hơn nữa, quá trình so sánh đòi hỏi ngườinghiên cứu đưa ra kết luận về những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật mà nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật chính là sự tương đồng hoặc khác biệt về kinh tế, chính trị, xã hội, tôn giáo, Lịch sử, địa lí… Do đó, những kiến thức về các lĩnh vực khác vừa là nền tảng để phân tích và làm sáng tỏ nội dung pháp luật của các nước đồng thời, chúng từng bước được bổ sung và hoàn thiện thêm khi tiến hành các nghiên cứu so sánh.

Đọc thêm tại: Dịch vụ sang tên sổ đỏ

Luật so sánh cung cấp tri thức về hệ thống luật trên Thế Giới

    Tri thức là mục tiêu chung củabất kì khoa học nào. Luật so sánh cũng như các khoa học nói chung và khoa học pháp nói riêng, trước hết nhằm cung cấp trì thức khoa học. Tất cả các học giả đã tiến hành các nghiên cứu so sánh nói chung và so sánh luật nói riêng đều nhận thấy rằng trì thức về các lĩnh vực khoa học sẽ được phát triển thông qua quá trình so sánh. Luật so sánh với tư cách là lĩnh vực khoa học so sánh cũng không phải là ngoại lẹ. Nghiên cứu luật so sánh không chỉ nhằm mục đích cung cấp kiến thức pháp luật mà còn cung cấp kiến thức của nhiêu lĩnh vực khác.
>>> Luật sư giỏi ở Hà Nội

>>> Thủ tục mua bán nhà

    Giống như tất cả các khoa học pháp lí khác, mục tiêu đầu tiên của luật so sánh là cung cấp tri thức pháp luật cho ngườinghiên cứu. Luật so sánh trước hết cho chúng ta cái nhìn toàn diện vê hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới thông qua việc giới thiệu các dòng họ pháp luật khác nhau. Với những lí thuyết về phân nhóm các hệ thống pháp luật của các quốc gia thành các dòng họ khác nhau và đặc biệt là việc nghiên cứu các dòng họ pháp luật cơ bản trên thế giới mà chủ yếu là tập trung vào hai dòng họ pháp luật lớn nhất trên thế giới là dòng họ common law và dòng họ civil law, luật so sánh sẽ giúp cho người  nghiên cứu một bức tranh toàn cảnh về các hệ thống pháp luật trên thế giới cũng như có được những nhận định chung, nhất về hệ thống pháp luật của quốc gia nào đó khi xác định được hệ thống pháp luật của quốc gia đó thuộc vào dòng họ pháp luật nào. Hôm nữa, với việc giới thiệu các hệ thống pháp luật trên thế giới và phương pháp so sánh pháp luật, ngườinghiên cứu cũng có thể xác định được những điểm tương đồng và những điểm khác biệt giữa các dòng họ pháp luật khác nhau.

Luật so sánh cung cấp tri thức

     Bên cạnh đó, không chỉ cung cấp những tri thức về các dòng họ pháp luật trên thế giới, luật so sánh còn cung cấp những tri thức về hệ thống pháp luật nước ngoài. Mặc dù, nghiên cứu thuần tuý pháp luật nước ngoài không phải là nghiên cứu so sánh luật nhưng để thực hiện được các nghiên cứu so sánh luật thì “những hiểu biết về pháp luật nước ngoài là điều kiện tiên quyết và không thể thiểu được để so sánh cụ thể”.Hơn nữa, cung cấp thông tin về các hệ thống luật khác nhau là sự đóng góp đáng kể nhất của luật so sánh đối với thực tiễn pháp luật và trên thực tế, việc tạo ra các thông tin đó là điều mà đa số các nhà so sánh thực hiện trong phần lớn thờigian. Chẳng hạn, để có được những phân tích so sánh về những điểm tương đồng và khác biệt giữa chế định pháp luật của hệ thống pháp luật này với chế định pháp luật của hệ thống pháp luật khác, ngườinghiên cứu phải tìm hiểu chế định pháp luật của cả hai hệ thống pháp luật này thì mới có thể đưa ra được những nhận định so sánh chính xác. Vì vậy, để tiến hành các nghiên cứu so sánh, ngườinghiên cứu trước tiên phải tìm hiểu về hệ thống pháp luật được lựa chọn để so sánh. Nói cách khác, chúng ta chỉ có thể so sánh những gì mà chúng ta hiểu biết.Vì thế, thông qua quá trình so sánh, ngườinghiên cứu có thêm được những tri thức về các hệ thống pháp luật được lựa chọn để so sánh. Đó chính là tri thức pháp luật về các hệ thống pháp luật khác trên thế giới.

Ứng dụng và phát triển luật so sánh ở Việt Nam

     Bên cạnh đó, các tổ chức chuyên về luật so sánh đã được thành lập ở các trường đại học, các viện nghiên cứu ở Việt Nam. Trong đó, ra đời sớm nhất vào đầu những năm 90 của thế ki trước là Phòng nghiên cứu luật so sánh thuộc Viện nhà nước và pháp luật thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam. Bước sang thế kỉ XXI, nhu cầu nghiên cứu, ứng dụng và phát triển luật so sánh ở Việt Nam ngày càng cấp thiết, nhiều tổ chức chuyên về luật so sánh đã được thành lập. Viện khoa học pháp lí thuộc Bộ tư pháp dã thành lập Trung tâm luật so sánh và luật quốc tế năm 2001. Các cơ sở đào tạo chuyên về luật cũng đã phát triển lĩnh vực luật so sánh thông qua việc thành lập các trung tâm luật so sánh như Trung tâm luật so sánh của Khoa luật – Đại học quốc gia Hà Nội (thành lập năm 2003), Trung tâm luật so sánh thuộc Trường Đại học Luật Hà Nội (thành lập năm 2004); Trung tâm luật so sánh thuộc Khoa luật – Đại học cần Thơ (thành lập năm 2005). Các trung tâm luật so sánh của các cơ sở đào tạo luật ngoài nhiệm vụ nghiên cứu luật so sánh còn đảm nhiệm chức năng giảng dạy luật so sánh cho các sinh viên ở các bậc học khác nhau.
>>> Luật sư giỏi ở Hà Nội

>>> Thủ tục mua bán nhà

luật so sánh ở Việt Nam

     Cùng với các công trình nghiên cứu và việc thành lập các tổ chức chuyên về luật so sánh, ở các cơ sở đào tạo luật, môn học luật so sánh đã được đưa vào chương trình đào tạo vào những năm đầu của thế kỉ XXI. Lúc đầu, môn học này là môn học tự chọn của một số chuyên ngành. Đến năm 2004, luật so sánhTrong chuơng trình đào tạo đại học hệ chính quy của Trường Đại học Luật Hà Nội môn luật so sánh được đưa vào giảng dạy từ năm 2003 cho sinh viên chuyên ngành luật quốc tế và pháp luật kinh tế trở thành môn học bắt buộc đối với sinh viên theo học chương trình cử nhân luật. Tuy vậy, với thời lượng môn học còn khiêm tốn, nội dung cơ bản của môn học này chủ yếu tập trung vào một số vấn đề lí luận chung về luật so sánh và giới thiệu một số dòng họ pháp luật và một số hệ thống pháp luật của các quốc gia trên thế giới.

Sự thay đổi của lập pháp Việt Nam sau năm 1975

     Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, hoạt động lập pháp củaViệt Nam đã có sự phát triển đáng kể. Hiến pháp năm 1980 và các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước đã được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của Liên Xô và các nước XHCN khác. Điều này đã làm cho hệ thống pháp luật củaViệt Nam trong giai đoạn này có nhiều điểm tương đồng với pháp luật của Liên Xô.
     Từ năm 1986 đến nay, những yêu cầu của quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế đòi hỏi chúng ta phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để có thể chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới. Nhờ đó, luật so sánh đã được phát triển mạnh hơn so với các giai đoạn trước trên cả hai phương diện là so sánh lập pháp và so sánh học thuật.

Sự thay đổi của lập pháp Việt Nam

     Ở phương diện so sánh lập pháp, các nhà làm luật trong quátrình soạn thảo các văn bản pháp luật đã tìm hiểu và tham khảo kinh nghiệm pháp luật của các nước khác nhau, đặc biệt là những nước đã phát triển nền kinh tế thị trưởng. Việc ban hành các văn bản pháp luật, nhất là các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ gắn liền với nền kinh tế thị trường được chú trọng hơn. Trong quá trình soạn thảo các văn bản này, các nhà làm luật đã tìm hiểu, phân tích, đánh giá khả năng tiếp nhận các quy định pháp luật nước ngoài để đề xuất các phương án có thể được sửdụng phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam. Tuy nhiên, “hướng nghiên cứu so sánh lp pháp của giới pháp lí Việt Nam chưa thực sự rõ rệt, sâu sắc và có bài bản”.

     Ở phương diện luật so sánh học thuật, các nhà luật học Việt Nam trong giai đoạn này đã bắt đầu quan tâm đến các nghiên cứu so sánh học thuật. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu của các nhà luật học Việt Nam chủ yếu là giới thiệu các dòng họ pháp luật trên thế giới hoặc giới thiệu những vấn đề cụ thể củacác hệ thống pháp luật nước ngoài. Các công trình nghiên cứu so sánh luật trên cơ sở những nguyên tắc và lí thuyết của luật so sánh chưa nhiều. Đặc biệt, các nghiên cứu lí thuyết về luật so sánh còn rất khiêm tốn. Có thể nói đến một số công trình lí thuyết về luật so sánh như “Tìm hiểu luật so sánh”,“Luật so sánh” và một số bài viết trong các tạp chí chuyên ngành như Tạp chí luật học,Tạp chí nhà nước và pháp luật… Mặc dù vậy sự phát triểnngày càng mạnh mẽ các công trình so sánh và giới thiệu pháp luật nước ngoài đã phần nào phản ánh được sự phát triển của luật so sánh ở Việt Nam trong giai đoạn này.
>>> Dịch vụ sang tên sổ đỏ

Luật của Việt Nam bị ảnh hưởng không nhỏ từ pháp luật nước ngoài

     Những ví dụ này cho thấy các nhà làm luật của Việt Nam thờikì phong kiến cũng đã nghiên cứu tham khảo pháp luật nước ngoài, trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật của mình, Thậm chí, các nhà làm luật đã đưa vào trong các văn bản pháp luật của Việt Nam nhiều quy định pháp luật của nước ngoài nhu là một sự “cấy ghép” pháp luật.
>>> Luật sư giỏi ở Hà Nội

>>> Thủ tục mua bán nhà

     Sau Cách mạng tháng Tám, với sự ra đờicủa Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, hệ thống pháp luật Việt Nam đã từng bước được xây dựng. Có thể nói hầu hết các đạo luật lớn đặc biệt là hiến pháp và các luật về tổ chức nhà nước của Việt Nam đã được xây dựng trên cơ sở tham khảo pháp luật của nước ngoài, nhất là pháp luật của các nước XHCN. Khi tiến hành việc soạn thảo bản Hiến pháp năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo “phải tham khảo hiến pháp của các nước bạn và của một sô nước tư bản có tính chắt điển hình.Vì thế, Hiến pháp 1959 được xem như là một trong những sản phẩm củaso sánh phápluật được thực hiện bởi các nhà làm luật Việt Nam.

     Trong giai đoạn này, ở miền Bắc, luật so sánh học thuật dường như ít được chú trọng. Điều này, một phần xuất phát từ bản thân sự phát triển của khoa học pháp lí ở Việt Nam nói chung và khoa học luật so sánh nó riêng, một phần do những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử, những thông tin về pháp luật nước ngoài cũng ít được các học già quan tâm nghiên cứu. Nếu có các công trình nghiên cứu pháp luật trong giai đoạn này, có lẽ các công trình đó cũng chỉ tập trung vào hệ thống pháp luật của các nước XHCN.

Luật của Việt Nam

     Ở miền Nam, trong khoảng thờigian từ năm 1954 đến năm 1975, các nhà làm luật của miền Nam Việt Nam cũng đã tham khảo pháp luật của nước ngoài trong quá trình xây dựng pháp luật. Trong lĩnh vực luật tư, khi soạn thảo các văn bản pháp luật liên quan đến các lĩnh vực dân sự, thương mại, hôn nhân và gia đình đều tham khảo pháp luật của Pháp. Chẳng hạn, trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, “Sắc luật 1964 có nhiều điều khoản chép y nguyên theo Bộ dân luật Pháp ”.Ngược lại, trong một số lĩnh vực luật công như luật hiến pháp, luật hình sự, các nhà làm luật còn tham khảo pháp luật củaMỹ và một số nước khác. Chẳng hạn, sự tồn tại của “Pháp viện tối cao” theo quy định của Hiến pháp Việt Nam cộng hoà năm 1967 là biểu hiện của việc các nhà làm luật đã tham khảo Hiến pháp củaHợp chủng quốc Hoa Kì.

     Ở phương diện luật so sánh học thuật, trong giai đoạn này, có một số công trình nghiên cứu luật so sánh mà đáng chú ý nhất là cuốn sách “Những ứng dụng của luật so sánh” của TS. Ngô Bá Thành xuất bản năm 1965 tại Sài Gòn. Trong đó, ngoài việc làm rõ một số nội dung cơ bản liên quan đến lí thuyết luật so sánh, tác giả đã tập trung đề cập những ứng dụng của luật so sánh trong nghiên cứu và thực tiễn. Bên cạnh đó, trong một số công trình của các học giả miền Nam trong thờikì này cũng đã giới thiệu những nét cơ bản về các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới. Chẳng hạn, Vũ Văn Mẩu, Trần Văn Liêmtrong một số công trìnhđã giới thiệu một cách khái quát về các hệ thống pháp luật trên thế giới;

>>> Dịch vụ sang tên sổ đỏ

Những bộ luật so sánh đầu tiên ở Việt Nam

     Thời kì trước năm 1986, luật so sánh ở Việt Nam chủ yếu là so sánh lập pháp. Nói các khác, các nhà làm luật của Việt Nam ở các thời kì khác nhau trong lịch sử đều viện dẫn và sử dụng pháp luật nước ngoài để xây dựng hệ thống pháp luật của mình.

     Trong thời kì phong kiến, các nhà làm luật của các triều đại phong kiến của Việt Nam đã tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài để xây dựng hệ thống pháp luật của mình. Mặc dù không có nền tảng lí thuyết về so sánh pháp luật như bây giờ nhưng các nhà làm luật củaViệt Nam ở các thời kì khác nhau đã chắt lọc những điểm hợp lí trong pháp luật của nước ngoài mà chủ yếu là pháp luật Trung Quốc để xây dựng hệ thống pháp luật của mình phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh kinh tế xã hội của Việt Nam. Sự tiếp thu những kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài trong việc xây dựng pháp luật của các triều đại phong kiến Việt Nam không phải chỉ là sự tiếp thu về tư tưởng mà còn tiếp thu về hình thức cũng như nội dung của các văn bản pháp luật nước ngoài.

     Một ví dụ điển hình cho việc tiếp thu pháp luật Trung Quốc trong quá trình xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam là Quốc triều hình luật – Bộ luật có giá trị đặc biệt trong cổ luật của ViệtNam. Theo thống kê của các nhà nghiên cứu, khi xây dựng Quốc triều hình luật, các nhà làm luật Việt Nam đã tiếp nhận nhiều yếu tố trong pháp luật của Trung Quốc, vềhình thức cấu trúc, Quốc triều hình luật có đến 9 chương giống với Bộ luật nhà Đường.

luật so sánh đầu tiên ở Việt Nam

     Về nội dung, Quốc triều hình luật có đến 261 điều khoản tiếp nhận toàn bộ hoặc một phần từ luật của nhà Đưởng, 53 điều tiếp nhận từ Bộ luật của nhà Minh và một số điều khoản có nội dung tiếp nhận các quy định của nhà Tống.Mặc dù, “Quốc triều hình luật có nhiều điều khoản tương tự với những điều khoản tương ứng ở Bộ luật nhà Đưng nhưng nó có châm chước, sửa đối khi cần thiết những quy định của pháp luật nước ngoài mà nó tham khảo cho phù hợp với tình hình của xã hội Việt Nam, với truyền thống sinh hoạt của dân tộc ”
     Một văn bản pháp luật khác cũng rất nổi tiếng trong các triều đại phong kiến Việt Nam là Hoàng Việt luật lệ (còn gọi là Bộ luật Gia Long). Các nhà soạn thảo Hoàng Việt luật lệ đã nghiên cứu pháp luật của nước ngoài mà cụ thể là luật lệ của nhà Thanh (Trung Quốc) nên đã đưa vào trong bộ Hoàng việt luật lệ này nhiều quy định của pháp luật nhà Thanh, “Về hình thức, bộ Hoàng Việt luật lệ so với Bộ luật nhà Thanh, chép gần đúng toàn thể nguyên văn, chi loại bỏ mất vài điều lệ. Các bố cục giống như hệt không có sự thay đổi gì ”. “Nhà làm luật vì quá câu nệ trong sự bắt chước bộ luật nhà Mãn Thanh, nên đã chép lại rất nhiều điều luật nhà Mãn Thanh kể cả những lời bình chú”.  Việc nghiên cứu luật của nhà Thanh và so sánh với pháp luật của các triều đại trước đó của Việt Nam để xây dựng bộ Hoàng Việt luật lệ, được chính vua Gia Long lệnh cho các triều thần thực hiện. Trong lời tựa của Hoàng Việt luật lệ, vua Gia Long viết: “Các triều đình phương Bắc, các vua dựng lên những nhà Hán, Đường, Tống, Minh… mỗi triều đại, sách về luật đều có sửa đổi mà đầy đủ nhất là triều đại nhà Thanh. Thế nên, ta ra lệnh cho triều thần lấy luật lệ của các triều đại nước ta làm căn bản, tham chiếu luật Hồng Đức và luật Thanh triều; rút lấy, thêm bớt, cân nhắc, biên tập thành bộ luật tiện dụng ”.


Đọc thêm tại:
>>> Dịch vụ sang tên sổ đỏ

Sự phát triển rực rỡ của luật so sánh

     Từ sau những năm 50, với sự xuất hiện của các trung tâm và các viện nghiên cứu về luật so sánh, nhiều tạp chí chuyên về lĩnh vực này cũng được phát hành ở Mỹ cũng như ở châu Âu. Chẳng hạn, Tạp chí luật châu Âu và luật so sánh của Đại học Maastrìcht ở Hà Lan (The Maastrìcht Journal of European and Comparative Law) phát hành số dầu tiên năm 1994;
>>> Luật sư giỏi ở Hà Nội

>>> Thủ tục mua bán nhà

     Tạp chí luật so sánh của Mỹ (American Journal of Comparative Law) của Hội luật so sánh của Mỹ (American Society of Comparative Law) đã được xuất bản vào năm 1952 chì sau một năm kể từ khi Hội này được thành lập; Tạp chí luật quốc tế và luật so sánh (Hastings International and Comparative Law Review) cũng đã được xuất bàn tại Đại học Hastings củaMỹ năm 1976. Đến những năm 90 của thế kì trước, hàng loạt các tạp chí chuyên về luật so sánh đã được các trường luật ở Mỹ xuất bản như Tạp chí luật so sánh và luật quốc tế củaĐại học Duke (Duke Journal of Comparative and International Law) xuất bản số đầu tiên năm 1990; Tạp chí luật quốc tế và luật so sánh của Đại học Indiana (The Indiana International &Comparative Law Review) xuất bản số đầu tiên năm 1991; Tạp chí luật quốc tế và luật so sánh của Đại học New England (Bang Massachusetts) được xuất bản năm 1994 (The New England Journal of International and Comparative Law). Ở châu Á, Khoa Luật Đại học quốc gia Singapore cũng đã xuất bản tạp chí thưởng kì về luật so sánh và luật quốc tế (Singapore Journal oí International and comparative law), Viện pháp luật châu Á sau khi được thành lập cũng đã xuất bàn tạp chí luật so sánh (Asian Journal of Comparative Law).

Sự phát triển rực rỡ của luật so sánh

     Sự xuất hiện của các tạp chí chuyên về luật so sánh và việc thành lập các viện nghiên cứu, các trung tâm nghiên cứu luật so sánh và sự quan tâm của giới luật học đối với luật so sánh đã làm xuất hiện số lượng khổng lồ các công trình nghiên cứu so sánh ở các cấp độ và phạm vi khác nhau. Điều đó đã tạo ra sự khác biệt rất lớn về sự phát triển của Luật so sánh trong nửa cuối của thế kỉ XX so với các giai đoạn trước là “ở thời điểm của năm 1950, một ngườicó thể nắm được nội dung các tài liệu về luật so sánh bằng tiếng Anh trong vài tuần thì bây giờ, điều này có thế phải mất nhiều.

     Trong đó, bên cạnh các tài liệu chuyên khảo, cácluận văn và hàng nghìn bài báo đăng trên các tạp chí khác nhau, có rất nhiều chuyên luận rất nổi tiếng và hữu ích mà không một học giả luật so sánh nào bỏ qua, chẳng hạn, “Các hệ thống pháp luật trên thể giới đương đại” của hai học già ngườiPháp là René David và John E. c. Brierley,“Luật so sánh trong thế giới đang biến đổi” của Peter de Cruz “Giới thiệu về luật so sánh” của K. Zweigert và H. Kotz, “Các truyền thống pháp luật so sánh” của John H. Merryman, Michael w. Gordon và Christopher Osakvve, “Các truyền thống pháp luật so sánh” của Mary Ann Glendon, Michael Wallace Gordon và Paolo G. Carozza.

Sự phát triển của luật so sánh trên Thế Giới

     Ở Mỹ và Tây Âu, luật so sánh tiếp tục phát triển mạnh mẽ Nhiều trung tâm, viện nghiên cứu cũng như các hiệp hội luật so sánh đã được thành lập. Hội luật so sánh của Mỹ (Americai Society of Comparative Law) được thành lập năm 1951, Hiệp hộ luật so sánh của Italia được thành lập năm 1958, Hiệp hội luật so sánh Hà Lan (The Netherlands Comparative Law Association), được thành lập năm 1968, Viện luật so sánh Thụy Sĩ được thành lập năm 1982; Viện nghiên cứu luật châu Âu và luật so sánh của Khoa Luật, Đại học Oxford được thành lập năm 1995.
>>> Luật sư giỏi ở Hà Nội

>>> Thủ tục mua bán nhà

     Các viện nghiên cứu và các trung tâm này đã có những đóng góp rất đối với sự phát triển của luật so sánh trong giai đoạn này. Đặc biệt là các trung tâm nghiên cứu hoặc các viện nghiên cứu luật sánh đã xây dựng các chương trình đào tạo luật so sánh ở  trình độ khác nhau. Ở Mỹ, bắt đầu vào những năm 1950, các trưởng luật ở Mỹ đã tiến hành các khoá học luật so sánh mà nộidung của các khoá học này tập trung chủ yếu vào luật La Mã của các nước Tây Âu, Pháp luật Xô viết hoặc pháp luật của nước châu Mỹ Latinh. Vào giữa những năm 60 của thế XX, có hơn 50 cơ sở đào tạo luật ở Mỹ đã đưa vào chương trình giảng dạy của mình môn học luật so sánh. Đến nay, môn học so sánh được xem là một trong những môn học cơ bản trong chương trình đào tạo của các trường luật ở Mỹ cũng như các nước khác trên thế giới. Bên cạnh đó, nhiều cuốn tạp chí chuyên về 1 so sánh cũng đã được xuất bản ở châu Á, Nhật Bản có lẽ là nước đi tiên phong trong việc phát triển luật so sánh học thuật với việc thành lập Viện so sánh thuộc Đại học Chuo năm 1948.

Sự phát triển của luật so sánh

     Sau đó, nhiều trưởng được ở Nhật Bản cũng đã thành lập các trung tâm và các viện về luật so sánh như Viện luật so sánh tại Đại học Wasedarowc thành lập năm 1958, Trung tâm quốc tế về luật và chính trị ; so sánh (The International Center for Comparative Law and Ptcs) thuộc Đại học Tokyo. Từ những năm 80 của thế ki trước lại đây, nhiều trưởng đại học ở các nước châu Á khác cũng đã thành lập các viện, các trung tâm nghiên cứu luật so sánh. Đáng lý là việc thành lập Viện luật châu Á (Asian Law Institute – :LI) năm 2003 do sáng kiến của một số trưởng luật ở các nước châu Á. Cùng với việc thành lập các viện và các trung tâm nghiên cứu luật so sánh, các cơ sở đào tạo luật ở châu Á cùng đã xây dựng các chương trình đào tạo luật so sánh trong các cơ sở. Chẳng hạn, Khoa luật của Đại học quốc gia Singapore dựng và thực hiện chương trình đào tạo thạc sĩ về luật so sánh.
Xem thêm : Thủ tục thành lập doanh nghiệp mới 

Sự phát triển của Luật so sánh học thuật

    Luật so sánh học thuật được phát trrển đầu tiên và trước hết là ở các nước châu Âu. Tuy nhiên, so với so sánh lập pháp, luật so sánh học thuật phát trìển muộn hơn. Đến giữa thế ki thứ XIX, “luật so sánh dường như mới được thừa nhận như ngành nghiên cửu pháp luật hoặc ít nhất là phương pháp được chấp nhận để nghiên cứu các hệ thống pháp luật khác nhau”,  vì thế trong thời gian khá dài, luật so sánh không được thừa nhận một cách chính thức và vì vậy, không có vị trí trong khoa học pháp lí.
>>> Luật sư giỏi ở Hà Nội

>>> Thủ tục mua bán nhà

    Sự ra đờicủa giải phẫu so sánh, trìết học so sánh, tôn giáo so sánh trong các ngành khoa học tương ứng đã tạo điều kiện cho việc thừa nhận và phát trìển của luật so sánh trong lĩnh vực khoa học pháp lí.

    Trong nửa đầu thế ki XIX, luật gia của các nước chỉ tập trung vào nghiên cứu hệ thống pháp luật của nước mình vì thế luật so sánh không có điều kiện để phát trìển. Bắt đầu từ cuối những năm 20 của thế ki này, đã có những tín hiệu cho sự hình thành và phát trìển của luật so sánh học thuật. Đầu tiên phải nói đến là sự ra đòi của cuốn “Tạp chí phân tích” (Kritische Zeitschrift) liên quan đến luật so sánh đầu tiên trên thế giới ở Đức vào năm 1829 và cuốn tạp chí này xuất bản được 28 số khác nhau.

Luật so sánh học thuật

    Ở Pháp, Tạp chí lập pháp nước ngoài (Revue étrangère de législation) được xuất bản năm 1834 đã giúp cho các luật gia Pháp có thêm những hiểu biết về pháp luật nước ngoài. Ở Anh, công trình “Bình luận về pháp luật thuộc địa và pháp luật nước ngoài” (Commantaries on Colonial and Foreign Laws) được xuất bản năm 1938 với nội dung chứa đựng các bình luận về pháp luật của các nước châu Âu lục địa. pháp luật của các vùng lãnh thổ là thuộc địa của Anh và pháp luật Anh là cuốn sách rất hữu ích đối với các luật gia của Anh và đặc biệt là Hội đồng cơ mật Anh (Privy Council) – cơ quan xét xử cao nhất ở các vùng thuộc địa của Anh. Một công trình đáng chú ý khác cũng ra đời xuất phát từ nhu cầu thực tiễn nhằm cung cấp thông tin về pháp luật nước ngoài cho các thương gia của Anh là “Luật thương mại trên thế giới” (năm 1854).

    Cuốn sách đã so sánh luật thương mại của Anh với luật thương mại của nhiều nước khác trên thế giới. Ở Mỹ, Chiến tranh giành độc lập và sau đó là cuộc chiến tranh năm 1812 đã làm cho người Mỹ chát ghét mọi thứ có nguồn gốc từ nước Anh. Các luật gia Mỹ cho ràng cần phải phát trìển những quy tắc mới phù hợp với những điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội ở Mỹ. Vì thế, các luật gia của Mỹ đã tiến hành các nghiên cứu luật La Mã và pháp luật đương đại của các nước châu Âu lục địa đặc biệt là pháp luật của Pháp. Điều này đã tạo điều kiện cho sự phát trìển luật so sánh ở Mỹ.


Luật so sánh đã từng bước được đưa vào giảng dạy

    Bên canh sự xuất hiện các ấn phẩm chuyên về pháp luật nước ngoài và luật so sánh, ở các nước châu Âu lục địa, luật so sánh đã từng bước được đưa vào giảng dạy tại các trưởng luật, ở Pháp, bộ môn lịch sử so sánh pháp luật đã được thành lập tại trưởng đại học Paris năm 1831.
>>> Luật sư giỏi ở Hà Nội

>>> Thủ tục mua bán nhà

    Sau đó, từ năm 1838 trở đi, Khoa Luật của Đại học Paris đã tiến hành giảng dạy các khoá học về luật hình sự so sánh và đến năm 1846, chức vụ trưởng chuyên ngành luật hình sự so sánh được thiết lập. Ở Mỹ trong giai đoạn này, việc giảng dạy pháp luật nước ngoài cũng đã được chú trọng. Tại Khoa Luật, Đại học Harvard, pháp luật của các nước châu Âu lục địa cũng đã được đưa vào giảng dạy như là một phần chương trình đào tạo.

    Cũng từ chương trình này, Đại học Harvard đã có chức vụ trưởng chuyên ngành pháp luật châu Âu lục địa (Chair of civil law).

Luật so sánh

    Giai đoạn cuối thế kỉ XIX, sự phát trìển của luật so sánh được đánh dấu bằng sự phát trìển mạnh mẽ của các thiết chế của nó như các hiệp hội, các tạp chí và trưởng các chuyên ngành so sánh (Professional chairs). Hội so sánh lập pháp (Société de législation comparée) được lập ra ở Pháp năm 1869 được xem là tổ chức đầu tiên trên thế giới về luật so sánh.

    Gắn liền với sự ra đời của Hiệp hội này là sự ra đời cuốn Tạp chí quốc tế về luật so sánh (Revue internationale de droit comparé) Sau sự ra đời của Hội so sánh lập pháp và Tạp chí quốc tế về luật so sánh, năm 1876, ở Đại học Paris các môn học luật so sánh chuyên ngành khác cũng đã được đưa vào giảng dạy như luật thương mại và luật hàng hải so sánh (1892), luật hiến pháp so sánh (1895) và luật tư so sánh (Comparative private law). Ở Đức. 

    Sự ra đời cuốn Tạp chí luật so sánh (Zeitschrift für vergleichende Rechtswissenschaft) năm 1878 với nội dung chủ yếu tập trung vào lịch sử pháp luật so sánh và Hiệp hội quốc tế về luật học và kinh tế học so sánh được thành lập năm 1894 đã đánh dâu bước phát trìển mới của luật so sánh của Đức. ơ Anh, Đại học Oxford trong năm 1869 cũng đã xây dựng chức danh giáo se luật học so sánh và lịch sử pháp luật và năm 1894 tại Đại học London đã có trưởng chuyên ngành lịch sử pháp luật và luật sosánh. Cũng trong năm này, Hội lập pháp so sánh đã được thànhlập ở Anh và Hội này cho đến nay vẫn còn tồn tại cùng với cuối tạp chí hàng quý của nó là Tạp chí luật quốc tể và luật so sánh (International and comparative Law Quarterly)
Xem thêm : Thủ tục thành lập doanh nghiệp mới 

Những tài liệu về hoạt động xây dựng pháp luật

    Những tài liệu về hoạt động xây dựng pháp luật của các nước cho thấy ràng Đức là một trong số những quốc gia đầu tiên tiến hành các so sánh lập pháp để xây dụng hệ thống pháp luật của mình.
>>> Luật sư giỏi ở Hà Nội

>>> Thủ tục mua bán nhà

    Mặc dù, trong thời kì pháp điển hoá ở các nước châu Ẩu lục địa, nhiều bộ luật dã được ban hành như Bộ luật dân sự của Áo năm 1811, Luật đất đai của vùng Prusia và cả Bộ luật dân sự Napoleon năm 1804 nhưng những văn bản được pháp điển hoá này được xây dựng dựa vào trìết lí pháp luật của trưởng phái luật tự nhiên chứ không phải là dựa vào luật so sánh.

    Đến giữa thế ki XIX, phong trào pháp điển hoá pháp luật và nhất thể hoá pháp luật của Đức đã được thực hiện dựa vào những so sánh pháp luật. Để pháp điển hoá pháp luật của mình, các luật gia Đức đã thực hiện việc so sánh các văn bản pháp luật không phải chi của các vùng lãnh thổ khác nhau của nước Đức mà đã so sánh các văn bản pháp luật của các quốc gia khác trong thòi kì này.

hoạt động xây dựng pháp luật

    Chẳng hạn, khi xây dựng Luật về các phương tiện đàm phán của Đức năm 1848 và Bộ luật thương mại chung năm 1861, các luật gia Đức đã so sánh luật của các vùng khác nhau của Đức cùng với Bộ luật thương mại của Pháp, Hà Lan và các các nước châu Âu. Đặc biệt, để hoàn thành Bộ luật hình sự, các nhà làm luật của Đức đã tạo ra sản phẩm so sánh pháp luật hình sự đồ sộ với 15 tập khác nhau.

    Đáng chú ý hơn nữa là Bộ luật dân sự của Đức năm 1896 cũng được hoàn thành dựa vào kết quả của việc so sánh luật tư của các nước và các vùng lãnh thổ như luật Giécmanh, luật Prusia, Bộ luật dân sự của Pháp, luật của Áo, Thuỵ Sĩ. Các quốc gia khác sau này khi cài tổ hệ thống pháp luật của mình đều dựa vào các nghiên cứu so sánh pháp luật của các nước khác nhau.

Bước phát triển đầu tiên của luật so sánh

    Đại hội quốc tế về luật so sánh (International Congress for Comparative Law) tại Pari năm 1900 đã đánh dấu bước phát triển mới của luật so sánh. Đại hội đã làm rõ được mục tiêu cơ bản của luật so sánh là nhằm tìm kiếm những giải pháp chung từ đó làm cho các hệ thống pháp luật khác nhau ngày càng gần nhau hơn. Thậm chí, các luật gia tham dự Đại hội này còn có ý tưởng rất lạc quan là theo đuổi sự thống nhất pháp luật của thế giới.

>>> Văn phòng luật sư Hà Nội

>>> Dịch vụ sang tên sổ đỏ

    Trong nửa đầu thế ki XX, nhiều thiết chế chuyên về luật so sánh đã được thành lập và các thiết chế này đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của luật so sánh. Một học giả đã nhận xét ràng: “Luật so sánh từ giai đoạn đó đến nay sẽ không thể phát triển được nếu thiếu các thiết chế đó”.

Bước phát triển đầu tiên của luật so sánh

     Năm 1916, Viện luật so sánh (Institute for Comparative Law) đã được thành lập tại Đại học Munich. Nhiều trưởng đại học khác ở Đức trong giai đoạn này cũng đã thành lập các viện, cơ quan nghiên cứu luật so sánh. Đại học Lyons của Pháp, năm 1920 cũng thành lập Viện luật so sánh nhở sáng kiến của một trong những học giả nghiên cứu luật so sánh rất nổi tiếng trên thế giới của Pháp là Lambert. Tại Berlin, năm 1926, Viện pháp luật nước ngoài và tư pháp quốc tế mang tên Hoàng đế William cũng được thành lập. Cũng trong thời gian này, Viện so sánh luật công, pháp luật nước ngoài và luật quốc tế được thành lập và Viện này đã nhanh chóng trở thành trung tâm nghiên cứu pháp luật so sánh ở Đức. Năm 1931, Viện so sánh luật của Đại học Paris cũng được thành lập. Ở cấp độ quốc tế, trong giai đoạn này cũng đã thành lập nhiều thiết chế có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của luật so sánh. Năm 1924, Học viện quốc tế về luật so sánh đã được thành lập tại La Haye. Học viện này chính là cơ quan tổ chức Đại hội Quốc tế luật so sánh thưởng kì 4 năm một lần. Đại hội lần thứ XVII được tổ chức tại Utrecht, Hà Lan năm 2006. Học viện này đã có những đóng góp đáng kể đối với sự phát triển của luật so sánh trên thế giới. Thêm vào đó, năm 1926, hên cơ sở ý tưởng của Chính phủ Italia, Hội quốc liên (League of Nations) cũng đã thành lập Viện quốc tế về nhất thể hoá luật từ (The International Institute for the Unification of Private Law). Viện này được xem như là cơ quan trực thuộc Hội quốc liên nhưng nó lại được sự hỗ trợ của Chính phủ Italia. Mặc dù Viện này không có mục đích thuần tuý là luật so sánh nhưng nó đã đóng vai trò không nhỏ đối với sự phát hiển của luật so sánh xuất phát từ mục đích nhất thể hoá luật tư của cơ quan này.

Phương pháp phân biệt luật so sánh

     Dựa vào mục đích của việc so sánh để phân biệt luật so sánh mô tả (Descriptive Comparative Law) và luật so sánh ứng dụng (Applied Comparative Law). Trong đó, so sánh mô tả là việc trình bày một cách có hệ thống những điểm tương đồng và khác biệt giữa các hệ thống pháp luật được lựa chọn đề so sánh.

>>> Văn phòng luật sư Hà Nội

>>> Dịch vụ sang tên sổ đỏ

    Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nếu chỉ tập họp và biên soạn thuần tủy các yêu tô của hệ thống pháp luật nào đỏ, thậm chí là việc trình bày song song hoặc thành bảng biểu các thành tổ liên quan đến hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau thì đó cũng không phải là luật so sánh mô tả: “ Việc so sánh này không nhằm mục đích nào khác lở cung cấp thông tin và nó không quan tâm đến việc người thực hiện nghiên cứu này định sử dụng kết quả nghiên cứu này như thế nào”.Khác với so sánh mô tả, so sánh ứng dụng không phải chi đơn thuần nhằm mục đích có được thông tin về hệ thống pháp luật nước ngoài mà nó cần phải xác định mục đích rõ ràng sau khi đã có thông tin về pháp luật nước ngoài. Tuy nhiên, mục đích này cũng không phải chi là mục đích thực tiễn như cải cách pháp luật hay là nhất thể hoá pháp luật mặc dù đây là mục tiêu quan trọng nhất của loại so sánh này. Các mục đích của loại luật so sánh này có thể bao gồm cả việc các nhà trìết học pháp luật hoặc lí luận pháp luật sử dụng việc so sánh để xây dựng các lí thuyết về pháp luật hoặc hỗ trợ các nhà lịch sử pháp luật tìm hiểu nguồn gốc và sự phát trìển của các khái niệm hoặc các chế định pháp luật.

Phương pháp phân biệt luật so sánh

    Ngoài ra, các nhà nghiên cứu so sánh còn có những cách phân loại khác như phân chia luật so sánh thành: Luật so sánh mô tả – đó là việc mô tà các hệ thống pháp luật khác nhau; so sánh phân tích – là việc đánh giá đặc tính của các quy phạm pháp luật của các hệ thống pháp luật trên cơ sở sự so sánh; so sánh lịch sử – đó là việc nghiên cứu sự phát trìển của các hệ thống pháp luật trong mối quan hệ với các hệ thống pháp luật khác.

SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRiỂN CỦA LUẬT  SO SÁNH

Sự hình thành và phát trìển của luật so sánh trên thể giới có thể phân chia sự hình thành và phát trìển của luật so sánh trên thế giới thành hai giai đoạn cơ bản là trước thế ki XIX và từ thế ki XIX đến nay.

Xem thêm : Thủ tục mua bán đất ở